Vụ Án Itaewon
Ông Lee Im Jae là quan chức cảnh sát đầu tiên tòa kết tội liên quan trực tiếp đến thảm họa giẫm đạp ở Hàn Quốc gây chấn động dư luận này.
Về việc không có dấu vết máu trên cổng sau của Bưu điện Cầu Voi
Kháng nghị giám đốc thẩm cho rằng, khi cắt cổ chị Hồng, chị Vân máu bắn rất nhiều lên người bị cáo; sau khi gây án, bị cáo trèo cổng sau để đi ra cổng trước nhưng theo Biên bản khám nghiệm hiện trường thì trên cánh cổng sau không có bất kỳ dấu vết máu nào để lại.
Nhận thấy, theo lời khai của Hải, sau khi cắt cổ chị Hồng và chị Vân, máu bắn rất nhiều lên người Hải nhưng sau đó Hải đã vào nhà vệ sinh rửa dao, rửa tay và gột quần áo (Bl 99, Bl 117). Lời khai của Hải phù hợp với kết quả khám nghiệm hiện trường không có dấu vết máu để lại trên cổng sau nên không phải là tình tiết mâu thuẫn như kháng nghị giám đốc thẩm đã nêu. Do đó, không cần thiết phải điều tra lại và hiện nay cũng không thể điều tra làm rõ được về vấn đề này.
Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao cho rằng, dấu vân tay thu được ở hiện trường (cửa kính, vòi nước ở lavabo) không phải của Hồ Duy Hải, dấu vân tay của ai cũng chưa được làm rõ.
Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và trình bày của Cơ quan điều tra Công an tỉnh Long An tại phiên tòa giám đốc thẩm thể hiện, trong quá trình khám nghiệm hiện trường, Cơ quan điều tra phát hiện và thu giữ một số dấu vết đường vân ở mặt trong cửa kính trên cánh cửa sau và trên tay nắm mở vòi nước ở lavabo. Cơ quan điều tra đã thu thập vân tay của khoảng 144 người nghi có liên quan để truy nguyên với các dấu vết đường vân thu tại hiện trường, nhưng không có kết quả trùng khớp. Bản kết luận giám định số 158/KL-P21 ngày 11/4/2008 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Long An kết luận: các dấu vết vân tay thu được tại hiện trường vụ án không phát hiện trùng với điểm chỉ 10 ngón in trên chỉ bản của Hồ Duy Hải (Bl 53). Như vậy, Cơ quan điều tra đã tiến hành điều tra truy nguyên dấu vấn tay thu giữ tại hiện trường. Việc không trùng khớp dấu vân tay thu được tại hiện trường với dấu vân tay của Hồ Duy Hải không phải là tình tiết chứng minh yếu tố ngoại phạm của Hồ Duy Hải. Mặc dù, không phát hiện dấu vân tay thu được tại hiện trường trùng với dấu vân tay của Hải, nhưng căn cứ vào các lời khai nhận tội của Hải phù hợp với bản ảnh hiện trường, biên bản khám nghiệm hiện trường, Biên bản giám định pháp y, kết quả thực nghiệm điều tra, lời khai của người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ căn cứ xác định Hồ Duy Hải là người thực hiện hành vi phạm tội.
Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao cho rằng, việc Hải dùng tay đánh vào mặt của chị Hồng thì không thể tạo ra các vết thương “rách da bờ mép sắc gọn ở trên vùng mặt và trên cằm”; các vết thương của chị Vân ở “vùng thái dương phải có hai vết trầy sước da 1×0,5cm, 1×0,3cm nằm cách nhau 2cm”, các dấu vết trên do vật gì gây ra, cơ chế hình thành như thế nào chưa được làm rõ.
Về vấn đề này, hồ sơ vụ án thể hiện: tại Biên bản khám nghiệm tử thi hồi 11 giờ 40 phút ngày 14/01/2008, xác định nạn nhân Vân có “01 vết thương tụ máu ở trên đầu (vùng đỉnh), 02 vết trầy xước da vùng thái dương, 01 vết thương hở, sâu bờ mép sắc gọn ở cổ” (Bl 55-56).
Tại Biên bản khám nghiệm tử thi hồi 12 giờ 10 phút ngày 14/01/2008, xác định nạn nhân Hồng có “04 vết thương bầm tụ máu ở trên đầu, 04 vết thương hở rách da trên mặt (trong đó có hai vết rách có bờ mép sắc gọn ở vùng lông mày trái), 01 vết rách da, bờ mép sắc gọn ở cằm bên trái, 01 vết thương hở, sâu bờ mép sắc gọn ở cổ” (Bl 56-57).
Tại Bản giám định pháp y số 21/PY.08 ngày 17/01/2008, Phòng giám định pháp y Bệnh viện đa khoa Long An kết luận: “Nạn nhân Nguyễn Thị Ánh Hồng, sinh năm 1985, tử vong do bị vết thương hở làm đứt ngang vùng cổ phía trước gây choáng chấn thương, mất máu cấp. Tổn thương kèm theo: máu tụ dưới da đầu và vùng cổ có thể dẫn đến choáng cho nạn nhân”.
Tại Bản giám định pháp y số 22/PY.08 ngày 17/01/2008, Phòng giám định pháp y Bệnh viện đa khoa Long An kết luận: “Nạn nhân Nguyễn Thị Thu Vân, sinh năm 1987, tử vong do bị vết thương hở làm đứt ngang vùng cổ phía trước gây choáng chấn thương, mất máu cấp”.
Tại Công văn số 37/GĐ.PY.08 ngày 07/4/2008, Phòng giám định pháp y Bệnh viện đa khoa Long An, trả lời giải trình dấu vết trên cơ thể các nạn nhân như sau: “1. Nạn nhân Nguyễn Thị Ánh Hồng: vùng đầu, mặt có nhiều vết bầm tụ máu diện rộng, đồng thời có những vết rách da bờ mép sắc gọn (mô tả trong bản Giám định pháp y – xem ảnh trong bản ảnh). Điều đó chứng tỏ: vùng đầu, mặt của nạn nhân đã bị va đập vào những vật vừa có bờ mép hình thù cứng, trơn nhẵn, đồng thời ở đó cũng có các vật cứng sắc gọn và bị va đập nhiều lần. 2. Nạn nhân Nguyễn Thị Thu Vân: da đầu không bị rách, chỉ bị tụ máu dưới da đầu vùng đỉnh, kích thước khá rộng (6cmx3cm) xương hộp sọ nguyên vẹn. Điều đó chứng tỏ: đỉnh đầu của nạn nhân bị va đập vào một vật có bề mặt lớn và vật đó không quá cứng (chỉ tổn thương ở mức độ nhẹ) còn nếu vật đó cứng thì lực tác động phải nhẹ, mới không gây rách da đầu và vỡ xương hộp sọ. 3. Cả 2 nạn nhân đều bị vết thương hở, có bờ mép sắc gọn làm cắt đứt phần cổ trước. Động tác, cơ chế hình thành vết thương, cách thực hiện hành động, hung khí gây án, kích thước, độ sâu vết thương… tương đối giống nhau. Tất cả những điều đó làm cho chúng ta suy nghĩ là vật sắc bén”
Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao cho rằng, việc bị cáo dùng tay đánh vào mặt của chị Hồng thì không thể tạo ra các vết thương “rách da bờ mép sắc gọn ở trên vùng mặt và trên cằm” là nhận định chủ quan và loại trừ các cơ chế hình thành vết thương do dùng dao cắt, dùng thớt và ghế đập.
Như vậy, kết luận giám định và giải thích kết luận giám định đã cơ bản kết luận, giải thích rõ nguyên nhân dẫn đến cái chết của chị Hồng và chị Vân là do vật sắc bén cắt cổ. Các vết thương còn lại chứng tỏ vùng đầu, mặt của nạn nhân Hồng bị va đập vào những vật vừa có bờ mép hình thù cứng, trơn nhẵn, đồng thời ở đó cũng có các vật cứng sắc gọn và bị va đập nhiều lần; nạn nhân Vân đỉnh đầu bị va đập vào một vật có bề mặt lớn và vật đó không quá cứng, còn nếu vật đó cứng thì lực tác động phải nhẹ, mới không gây rách da đầu và vỡ xương hộp sọ. Các kết luận giám định và giải thích của Cơ quan giám định phù hợp với lời khai của Hải là dùng tay đấm vào mặt, dùng hung khí thớt, ghế để đập, xô đẩy nạn nhân vào tường, dùng dao cắt cổ các nạn nhân; phù hợp với Bản ảnh hiện trường, Biên bản khám nghiệm tử thi, nên có đủ cơ sở kết luận nguyên nhân chết của chị Hồng và chị Vân là do Hải dùng dao cứa cổ. Việc điều tra lại làm rõ các tình tiết trên là không cần thiết.
Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao cho rằng mẫu tàn tro được thu giữ không có giá trị chứng minh trong vụ án.
Tại phiên tòa giám đốc thẩm, Cơ quan điều tra giải trình: việc tiến hành khám xét nhà Hải và lấy lời khai của Hải được tiến hành bởi hai Điều tra viên khác nhau; khi Hải khai về việc đốt quần áo mặc khi gây án thì Điều tra viên ghi lời khai Hải đã thông tin cho Điều tra viên chủ trì khám xét tiến hành khám xét mở rộng, phát hiện, thu giữ 02 đống tro trên.
Hồ sơ vụ án thể hiện, Biên bản ghi lời khai của Hồ Duy Hải lần đầu tiên bắt đầu từ 19 giờ 30 phút, kết thúc hồi 20 giờ 30 phút ngày 21/3/2008 do Điều tra viên Nguyễn Văn Minh tiến hành, Hải khai đốt quần áo, thắt lưng mặc khi gây án… ở vườn sau nhà của Hải và nhà của dì út Len (Bl 83). Căn cứ Biên bản khám xét nhà Hải ngày 21/3/2008 do Điều tra viên Lê Thành Trung thực hiện, bắt đầu hồi 18 giờ 30 phút, kết thúc hồi 21 giờ 30 phút, thể hiện có việc khám xét mở rộng ở nền đất phía sau nhà bà Nguyễn Thị Loan (mẹ của Hải) và nhà bà Nguyễn Thị Len (dì của Hải), phát hiện phía sau nhà bà Nguyễn Thị Len có hai đống tro bị đốt cháy còn nằm kết dính trên nền đất, Cơ quan điều tra đã tiến hành thu hai đống tro này, cho vào hộp niêm phong (Bl 323-324).
Như vậy, có căn cứ kết luận sau khi Hải khai về tình tiết này, Cơ quan điều tra mới tiến hành khám xét mở rộng vì việc đốt quần áo ở một hiện trường khác, hiện trường này không thuộc phạm vi khám xét ban đầu, nếu không có lời khai của Hải thì Cơ quan điều tra không thể phát hiện được.
Theo Biên bản mở niêm phong ngày 05/4/2008 (Bl 325) và Biên bản xác định đồ vật ngày 15/8/2008 (Bl 133), Hải xác định đoạn dây da cháy là đoạn thắt lung của Hải đốt sau khi gây án; mảnh vải cháy dở màu đen sọc nhiễn là vải của quần vải màu đen đã khai trước đây gây án; mảnh vải màu đen đã bị than hóa là vải của áo thun xanh đậm mặc gây án; mảnh vải nhỏ màu trắng ngà là vải áo thun mặc khi gây án nhưng ở vị trí ngực có hàng chữ màu trắng.
Tại Kết luận giám định số 3200/C21B ngày 08/5/2008, Phân viện khoa học kỹ thuật hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: trong mẫu tàn than tro có thành phần vải và nhựa polyster.
Lời khai của Hải về việc đốt quần áo mặc khi gây án (Hải không khai về nguyên liệu làm thắt lưng, quần áo) phù hợp với việc thu giữ 02 đống tro, phù hợp với việc xác định các đồ vật của Hải nêu trên, phù hợp với kết luận giám định về việc mẫu tàn tro có thành phần vải và nhựa polyster nên có giá trị chứng minh Hải có mặt tại hiện trường và thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao cho rằng mẫu tàn tro được thu giữ không có giá trị chứng minh trong vụ án là không đúng.
Kháng nghị giám đốc thẩm cho rằng có mâu thuẫn về việc tiêu thụ tài sản. Lúc đầu Hải khai, bán điện thoại cho một thanh niên lạ mặt được 200 ngàn đồng, bán nữ trang được 3 triệu không nhớ tiệm cùng ở Thành phố Hồ Chí Minh (Bl 82); sau đó Hải khai: bán điện thoại cho một thanh niên lạ mặt được 200.000 đồng, bán nữ trang cho một thanh niên lạ mặt khác được 3 triệu đồng (Bl 120); rồi lại khai: bán điện thoại cho một cô gái trên đường Hùng Vương được 200.000 đồng, bán nữ trang cho một cô gái ở tiệm thứ 2 được 3,5 triệu đồng (Bl 120, 113); Cơ quan điều tra không làm rõ được địa điểm, người tiêu thụ tài sản do phạm tội mà có theo lời khai của bị cáo.
Nhận thấy, quá trình điều tra, Hải có nhiều lời khai nhận, sau khi giết chị Hồng, chị Vân, Hải lên phòng giao dịch mở tủ lấy khoảng 1.400.000 đồng; khoảng 40-50 sim, card điện thoại, lấy điện thoại Nokia 1100 bỏ vào túi quần. Sau đó, Hải đến chỗ xác chị Vân lấy 01 dây chuyền vàng không có mặt, 01 vòng đeo tay bằng vàng và 01 nhẫn vàng; lấy ở xác chị Hồng 01 đôi hoa tai vàng, 01 sợi dây chuyền vàng mặt bông hoa, 01 lắc đeo tay vàng và 02 nhẫn vàng. Lời khai của Hải về chiếm đoạt những tài sản trên phù hợp với lời khai của ông Nguyễn Văn Mừng là bố đẻ của chị Hồng về tài sản bị mất của chị Hồng (Bl 158); phù hợp lời khai của ông Nguyễn Văn Hộ là bố đẻ của chị Vân về các tài sản bị mất của chị Vân (Bl 160), ngoài ra ông Hộ còn khai “…tôi nhận xác (Vân) kiểm tra lại thì còn… một mặt dây chuyền rơi lại trên người của Vân do công an giao trả” (Bl 162); phù hợp lời khai của chị Lê Thị Thu Hiếu và lời khai của anh Nguyễn Mi Sol (là bạn của chị Hồng, chị Vân); phù hợp lời khai của ông Đinh Phú Hùng là Giám đốc Trung tâm Bưu điện huyện Thủ Thừa (Bl 223) về các tài sản của Bưu điện Cầu Voi bị mất. Cơ quan điều tra đã cho Hải nhận dạng các tài sản có đặc điểm tương tự tài sản mà Hải chiếm đoạt (theo mô tả của Hải và những người làm chứng), tại các biên bản nhận dạng (Bl 136, Bl 150-157), Hải đều xác định những tài sản do Hải chiếm đoạt phù hợp với lời khai của những người làm chứng nêu trên. Do đó, có cơ sở xác định, Hải đã chiếm đoạt những tài sản trên của các bị hại.
Những mâu thuẫn trong lời khai về việc tiêu thụ tài sản như kháng nghị nêu đã được Hải xác định và nêu lý do khai không thống nhất tại Bản tự khai ngày 05/7/2008 (Bl 112-113), Biên bản hỏi cung ngày 07/7/2008 và ngày 11/7/2008 (Bl 100-101, 116-121). Tại Bản tự khai ngày 05/7/2008, Hải khai chi tiết và vẽ sơ đồ về vị trí Hải đã bán nữ trang (vàng), điện thoại và nơi vứt sim, card điện thoại. Trên cơ sở đó, Cơ quan điều tra tiến hành xác minh, làm rõ, cụ thể:
Về địa điểm bán vàng: theo lời khai của Hải và sơ đồ do Hải vẽ thì Hải bán vàng tại quầy số 2 Cửa hàng bán vàng bạc số 50 An Dương Vương, Phường 9, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh. Xác minh tại Cửa hàng số 50 An Dương Vương thì chị Nguyễn Kim Chi là nhân viên cửa hàng khai: quầy hàng của tôi đứng thuộc cửa số 2… tôi đứng ở tủ hàng phía bên trái tính theo hướng từ ngoài đường An Dương Vương nhìn vào cửa hàng… (Bl 169); bà Đặng Thị Liên là chủ cửa hàng khai: nếu vàng của cửa hàng mua vào thì không có hóa đơn, còn vàng không phải cửa hàng thì khi mua vào sẽ có hóa đơn tính tiền cho khách hàng (Bl 171); lời khai của Hải phù hợp với lời khai của người làm chứng về địa điểm bán vàng và việc sau khi đồng ý bán vàng, Hải nhận tiền, giấy biên nhận.
Về địa điểm bán điện thoại: tại biên bản lấy lời khai ngày 15/7/2008, chị Nguyễn Thị Huệ là chủ cửa hàng mua bán điện thoại di động tại số 124 Hùng Vương, Phường 2, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh khai: thời điểm tháng 1/2008 có mua điện thoại loại Nokia 1100 với giá 200.000 đồng (Bl 178), phù hợp với lời khai của Hải về địa điểm bán, giá bán loại điện thoại này, lời khai ông Đinh Phú Hùng về việc Bưu điện Cầu Voi bị mất điện thoại Nokia 1100 (Bl 223-224) và phù hợp với kết quả xác minh ngày 15/7/2008 của Công an Phường 2, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh (Bl 174).
Về địa điểm vứt sim card: bản tự khai ngày 05/7/2008 của Hải kèm sơ đồ do Hải vẽ, lời khai của Hải ngày 11/7/2008 (Bl 120) thể hiện, Hải vứt bỏ sim card vào bọc rác (do người dân để) trong hẻm trên đường Trần Bình Trọng, đối diện đầu hẻm này có nhà thờ. Kết quả xác minh ngày 07/7/2008 của Công an Phường 2, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh (Bl 175) phù hợp với lời khai trên của Hải.
Từ những nhận định trên cho thấy, chỉ người đi bán tài sản mới biết được những cụ thể địa điểm bán tài sản. Những nội dung này đã được xác minh, làm rõ nên không cần thiết phải điều tra lại.
Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao cho rằng, Hải lần đầu vào phía trong của Bưu điện Cầu Voi với thời gian rất ngắn nhưng lại khai rất chi tiết các đồ vật có trong từng căn phòng.
Việc Hồ Duy Hải mô tả được chi tiết các phòng và các đồ vật trong Bưu điện Cầu Voi đã được phân tích tại phần nhận định nêu trên [mục 1].
Trước khi ban hành Cáo trạng, Viện kiểm sát lấy lời khai của Hải và tại phiên tòa sơ thẩm, phiên tòa phúc thẩm, Hải khai sở dĩ biết được các chi tiết như trên là do anh Nguyễn Thanh Hải – Công an viên của xã Nhị Thành kể lại. Nhưng cũng tại bản cung này, khi Kiểm sát viên hỏi Hải cho điều tra xác minh, đối chất với anh Nguyễn Thanh Hải thì Hải lại khai “không cần, sự kiện trên là không có thật do tôi sợ xử nên tôi kéo dài thời gian xét xử”. Mặc dù vậy, để làm rõ hơn nội dung này, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An đã xác minh, lấy lời khai của anh Nguyễn Thanh Hải vào ngày 20/11/2008 thể hiện, khi Cơ quan điều tra khám nghiệm hiện trường, anh Nguyễn Thanh Hải giữ trật tự bên ngoài bưu điện, sau khi vụ án xảy ra anh cũng không gặp Hồ Duy Hải và không kể gì về vụ án cho Hải nghe. Lời khai của anh Nguyễn Thanh Hải phù hợp Biên bản khám nghiệm hiện trường thể hiện không có anh Nguyễn Thanh Hải tham gia. Vì thế, lời khai của Hải về việc nghe anh Nguyễn Thanh Hải kể lại chi tiết các phòng, đồ vật có trong Bưu điện Cầu Voi là không có cơ sở. Mặt khác, Hải có mặt tại hiện trường từ khoảng 19 giờ 30 phút đến khoảng 21 giờ 30 phút ngày 13/01/2008, khoảng thời gian này không phải là quá ngắn; với diện tích phòng khách của Bưu điện Cầu Voi có kích thước 4,6m x 5,6m không lớn và trong điều kiện có ánh sáng điện. Do đó, việc Hải khai chi tiết các đồ vật có trong hiện trường vụ án là có căn cứ nên không cần thiết phải điều tra lại vấn đề này.
Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao cho rằng, có sự mâu thuẫn về thời gian sau khi gây án: lúc đầu Hải khai, về nhà cửa không khóa, vào nhà ngủ không ai biết (Bl 82); sau đó Hải khai: tự lấy chìa khóa mở cửa vào nhà (Bl 84); rồi lại khai: khi về nhà cửa còn mở, tôi tự dẫn xe vào rồi kêu Nguyễn con dì Út đóng cửa dùm (Bl 87).
Xét thấy, tình tiết này không phải là mâu thuẫn về thời gian như kháng nghị nêu mà là lời khai của Hải về hành vi ở hiện trường khác và ở thời điểm sau khi vụ án xảy ra, nên không có ý nghĩa chứng minh hành vi phạm tội của Hải, việc điều tra lại vấn đề này là không cần thiết.
Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao cho rằng, hai bản án xác định chiếc ghế được thu giữ là công cụ phạm tội
Thực tế chiếc ghế đó không liên quan đến vụ án; hai đồ vật là con dao và cái thớt thu giữ được (do anh Nguyễn Văn Thu và chị Lê Thị Thu Hiếu cung cấp) không có giá trị chứng minh về công cụ gây án của người phạm tội.
Về vấn đề này, qua nghiên cứu Bản án hình sự sơ thẩm số 97/2008/HSST ngày 01/12/2008 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An và Bản án hình sự phúc thẩm số 281/2009/HSPT ngày 28/4/2009 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, Hội đồng xét xử không xác định chiếc ghế thu được là công cụ phạm tội. Do đó, nhận định trên của kháng nghị là không đúng với bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm. Tại phiên toà giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã thừa nhận sai sót này và đề nghị được đính chính kháng nghị về nội dung này.
Kết quả khám nghiệm hiện trường vụ án thể hiện có chiếc thớt dính máu để ở gần nạn nhân Hồng và chiếc ghế xếp mà nạn nhân Vân gác chân lên, không phát hiện con dao được nhét vào sau tấm bảng treo đối diện cầu thang. Khi khám nghiệm hiện trường, Cơ quan điều tra chưa thể biết được hung thủ dùng thớt, ghế để gây án cho đến khi Hồ Duy Hải khai chính Hải khai đã dùng thớt, ghế, dao làm công cụ gây án. Lời khai của Hải phù hợp với kết quả khám nghiệm hiện trường, phù hợp với vị trí con dao khi các anh Nguyễn Văn Thu, Võ Văn Hùng, Nguyễn Văn Vàng và Nguyễn Tuấn Ngọc phát hiện được trong lúc dọn dẹp hiện trường vào ngày 14/01/2008.
Mặc dù, Hải có lời khai mô tả đặc điểm chiếc thớt không thống nhất về bề dày, kích thước, nhưng căn cứ vào bản ảnh hiện trường có chiếc thớt; lời khai của chị Lê Thị Thu Hiếu (là bạn của chị Hồng và chị Vân) đã nhìn thấy và sử dụng chiếc thớt này; lời khai của anh Nguyễn Mi Sol (là bạn của chị Hồng); lời khai của các anh Nguyễn Văn Thu, Võ Văn Hùng, Nguyễn Văn Vàng, Nguyễn Tuấn Ngọc là những người phát hiện ra con dao, Cơ quan điều tra đã yêu cầu chị Hiếu mua chiếc thớt tương tự như chiếc thớt chị Hiếu và anh Sol đã nhìn thấy và có ở hiện trường; yêu cầu anh Thu mua 01 con dao có đặc điểm tương tự như những người làm chứng trên và Hải mô tả. Tại Biên bản nhận dạng (Bl 134), Hải nhận dạng được chiếc thớt này có đặc điểm tương tự như chiếc thớt Hải dùng để gây án, phù hợp với mô tả đặc điểm chiếc thớt của chị Hiếu, anh Sol và bản ảnh hiện trường vụ án. Tại Biên bản nhận dạng (Bl 144), Hải nhận dạng được con dao có đặc điểm, kích thước tương tự con dao mà Hải dùng để gây án, phù hợp với việc mô tả đặc điểm con dao mà các người làm chứng phát hiện được tại hiện trường vụ án. Điều đó có ý nghĩa chứng minh lời khai của Hải đã dùng dao và thớt để gây án là có cơ sở. Việc mua dao, thớt là có thật nhưng để phục vụ cho nhận dạng vật tương tự và thực nghiệm điều tra, các cơ quan tiến hành tố tụng không xác định những đồ vật này là vật chứng của vụ án.
Khám nghiệm tử thi ghi nhận “Bụng… dạ dày có chứa thức ăn đã nhuyễn, lượng ít…” (Bl 60), nhưng Cơ quan điều tra không giám định thời điểm chết của các nạn nhân là thiếu sót như Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao nêu. Tuy nhiên, theo trình bày của Giám định viên tại phiên tòa giám đốc thẩm thì trong trường hợp trên chỉ giám định xác định được nạn nhân chết trong khoảng thời gian bao lâu kể từ bữa ăn cuối mà không giám định được thời điểm chết của nạn nhân. Mặt khác, căn cứ lời khai nhận tội của Hải, Biên bản khám nghiệm hiện trường, Biên bản khám nghiệm tử thi, lời khai của các nhân chứng và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án thì đủ cơ sở khẳng định Hải là người thực hiện hành vi giết chị Hồng và chị Vân. Thiếu sót nêu trên không thay đổi bản chất vụ án nên không cần thiết phải điều tra lại.